Nấm của ba mẹ biểu diễn tiết mục Nào nhảy lên bạn ơi nhân ngày nhà giáo Việt Nam. Ba tuổi. Nấm múa erobic y như mẹ. Yêu quá chùng động tác tay và chân. Nấm lắc eo diệu quá! H thấy mìnhngày xưa qua hình ảnh của Nấm bây giờ. Ba Mẹ chở Nấm đi công diễn. Nấm ôm mẹ nói : Có mẹ ở bên con không sợ gì hết. H nghe con nói mà gần khóc. Vì lúc nào cũng chỉ có hai mẹ con quấn quít cùng nhau.Hoàn cảnh ba phải công tác xa. Nấm đã lớn lên bên cạnh Mẹ. Ba tuổi. Nẫm đã giúp mẹ mở chìa khoá cửa. Nấm cầm một chùmchìa khoá tự thử hết và mở được. Những lần tiếp theo thao tác đã rất thành thục. Sáng dậy, Nấm tự đi mở cửa cho mẹ.Đó là niềm hạnh phúc vô biên mà H có được. Tính tự lập của Nấm, tình yêu dành cho Nấm là động lực giúp H đủ dũng cảm và nghị lực vượt lên sự cô đơn, nhiều lúc sợ hãi để sống.
HĐNT ai cũng có chồng bên cạnh, Chỉ có H là một mình. Những chiều mưa. Đêm mưa. H có Nấm bi bô nói cười. Những cuộc điện thoại của Ba, cũng không bao giờ lấp đầy sự trống vắng của ngôi nhà. Ba cũng không bao giờ có thể ở bên cạnh khi mẹ con H gặp điều không may. Chiếc xe hư. Cũng quá nặng đối với H. Cái điện tắt. Máy nước nóng bị hư…. Một mình H xoay xở. Và rất nhiều lần H khóc một mình.
H vừa là Ba, vừa là Mẹ của Nấm. Đó là định mệnh. H không thể thay đổi. Có bao nhiêu người phụ nữ có chồng đi công tác xa như H ? H không biết
hết. Nhưng H nhất định sẽ sống đầy bản lĩnh để là điểm tựa cho Nấm. Nấm là người cần mẹ và yêu mẹ nhất trên cuộc đời.
H đến với nghề bằng một tình yêu mà mẹ H đã truyền cho. Yêu người bao nhiêu yêu nghề bấy nhiêu. Mỗi học trò là một bí mật. H đã có một tuần kỉ niệm vui biết bao nhiêu. Bài thơ H đăng báo Quảng Nam là một món quà riêng tặng HĐNT. H nhận điện chúc mừng từ những học trò cũ, học trò cá biệt ngày xưa và bạn cũ.
Phê bình thơ là một khoa học có sự soi chiếu của nhiều lí thuyết. Theo văn bản học, người phê bình luôn tôn trọng những gì có trong văn bản thơ. H muốn nói điều này vì có một người bạn làm H thất vọng khi bảo H nói đến vũ trụ tính và thiền tính trong thuyền hạnh là một sự gượng ép. Cũng như có người vì khoe sự hiểu biết của mình mà đã đi so sánh một cách khập khiểng những điều không nên so sánh. Ví như so sánh số 5 và số 10. Từ đó, H nghĩ, ngày càng nên có nhiều hội thảo văn chương ở thành phố này để làm sống lại tình yêu đối với văn chương. Và cũng để những ai chưa thường xuyên update lí luận phê bình có thêm nhiều cơ hội để tiếp xúc. Theo H, thơ lục bát cần có sự cách tân. Nhưng quan niệm cực đoan cho mọi người làm lục bát nên làm theo kiểu của Lê Tử Du thì không ổn một tí nào. Vì thơ ca cần sự lung linh đa dạng. Mỗi một phong cách là một loại hoa. Vào khu vườn thơ ca, người ta vẫn thích được ngắm nhìn vẻ đẹp của nhiều loài hoa hơn là chỉ một loại. Vì vậy cần có hội thảo Sự cách tân thơ lục bát để trao đổi. Đằng sau sự cách tân là gì? Thơ cốt dựa trên Tình. Ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ độc đáo và lạ. Những cách tân đó phải làm sao nói lên được những vấn đề của thời đại, sự phức tạp của lòng người thời hậu hiện đại. Nhưng thâm căn cố đế, H vẫn yêu những bài thơ khi đọc lên H trải nghiệm được một sự khải huyền về trí tuệ, về cảm xúc. Có rất nhiều ấn tượng trực giác. H rất cảm động vì có sự đồng cảm từ HH, HN, chị Nữ ( báo Quảng Nam) và học trò khi nghe tham luận của H tại hội thảo. H đã truyền được hay nói một cách khác đi nhen lên ngọn lửa yêu thơ đối với những người có tâm hồn, có tâm trong sáng.
Làm thơ không khó nhưng để có được thơ hay không phải chuyện dễ. Phải là người sống chân thành với đời, với người, với chính mình. Phải trải nghiệm đến tận cùng. Phảithường trực đối diện với cô đơn. Nguyễn Bá Hoà đã lặng lẽ đến với thơ bằng một tình yêu sâu sắc. Thơ anh làm trước hết để chống lại sự cô đơn:
Vô tư hắn tập làm thi sĩ
Tập trăn trở, chiêm nghiệm đợi chờ
Ai cũng bảo : Ôi con người lập dị
Nên cô đơn ám ảnh suốt đời thơ
(Ám ảnh)
Chân dung tự hoạ của anh đa diện như chính cuộc đời. Có khi đó là một triếtgia đang suy tư:
Sự thật có tuổi thơ
Là bao điều dối trá
Sự thật thiếu tuổi thơ
Nên muôn đời xa lạ
( Sự thật)
Tôi thích giọng thơ mang chất Thiền ở anh:
Chiều đi giữ bóng vô minh
Ngoài song cửa gió vẽ hình thập phương
Cây vạn hạnh nở trong vườn
Nhành duyên mở lối, cội hương mở chiều
( Chiều vạn hạnh)
Hay:
Bốn mùa mở vốn tìm duyên
Trao đi gởi lại mấy phiên hững hờ
Mềm lòng bói quẻ tinh mơ
Rớt cơn mê muội vỡ bờ tịnh tâm.
(Duyên )
Vẻ đẹp trong thơ mang sắc Thiền của anh là sự khải huyền về tiếng nói bên trong, tiếng nói tâm linh:
Tìm mua một tiếng chuông chùa
Cất trong tâm tưởng để siêu thoát lòng
Siêu thoát
Lẫn trong nước tiếng chuông chùa
Tiếng thiêng liêng tự ngàn xưa vọng về
Giếng cổ
Trên hành trình đi tìm bản ngã của mình, anh cũng đã tìm đến với tình yêu. Cái tôi đa ngã đó có khi lại là một người tình sâu sắc. Người đàn ông đang yêu trong thơ anh không cònnông nổi, bồng bột. Tình yêu cũng mang màu thiền:
Tình ươm vàng tiếng kinh cầu
Trái yêu nở rộ một màu vô vi
( Trái yêu)
Tận cùng yêu chợt ngộ ra:
Một nửa dương đi tìm một nửa âm
Chân bước hẩng lở mấy vòng vũ trụ
Mỗi nửa cô đơn về chính mình trú ngụ
Chợt ngộ ra không sắc ứng từ tâm
(Âm Dương)
Càng yêu càng cô đơn. Tình yêu trong thơ anh không có cái đam mê, đắm say điên cuồng, không mang màu sắc nhục cảm. Cái đọng lại ở đây là sự gắn kết của đôi tâm hồn đồng điệu, quyến luyến. Họ đi tìm nhau trong mơ.
Hình ảnh Giấc mơ trở đi trở lại trong nhiều bài thơ. Có giấc mơ trong Hoa Sưa. Có giấc mơ trong Vịn chiều: Gót hoàng hôn dẫm nát vườn chiêm bao. Đau đáu trong Người Mơ: Người về trong giấc mơ đêm. Rồi trăn trở với Buồn vui:
Lục tìm trong giấc chiêm bao
Gom buồn vui lại gởi vào cõi không
Con người đa ngã trong thơ anh, còn là một thi sĩ tinh tế lắng nghe mọi chuyển động của vũ trụ, vạn vật. Vũ trụ tính trong thơ anh là ánh trăng, giọt sương, dòng sông, tiếng chim, cánh chuồn, nụ hoa kiến sen, giọt nắng…:Tìm trong con nước bình yên
Vầng trăng sót lại bên triền nhớ nhung
Nhật thực
Dòng sông gợn mấy nếp nhăn
Vầng trăng bao tuổi sao băng mấy lần
Đi tìm
Ánh trăng và dòng sông gợi mĩ cảm phương Đông như trăng soi đáy nước của Kawabata. Ánh trăng là biểu tượng của vẻ đẹp. Hình ảnh đó ám ảnh và trở đi trở lại trong rất nhiều bài thơ của anh: Đêm nguyên tiêu, trăng thừa trong Đêm suông, trăng non trong Thao thức, hạt trăng trong Đêm làng nghề, Trăng chưa chồng, Trăng xế, trăng treo, trăng sáng, Trăng Khuya. Màu trăng..
Tập thơ Thuyền Hạnh gồm bảy mươi chín bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt. Có tứ tuyệt lục bát. Có tứ tuyệt tự do. Tứ tuyệt tự do thể hiện sự cách tân của anh. Đề từ thơ anh cũng là một sự tìm tòi, thể nghiệm. Những đề từ mang tính hệ thống về cảm thức Thiền: Thuyền Hạnh, Âm Dương, Ngộ, Siêu thoát, Chiều Vạn Hạnh, Tĩnh tâm. Và tôi yêu những cách đặt tên: Nắng kiến sen, Tán Sắc…Tôi rất thích những hình ảnh thơ độc đáo, mới lạ như:
Lời em ủ hoa sưa
Tùng câu chữ rục vàng mọng chín
Đêm ngọt lịm
Mật chảy tràn giấc mơ
(Hoa Sưa)
Hay:
Anh một ngày tán sắc giữa mênh mông
Tán Sắc
Nghiêng chiều rót nhớ vào đêm
Thiên nhiên
Có người bảo thơ anh chừng mực quá! Giá có một chút dậy sóng, một chút cực đoan, phải hết mình và cháy bỏng hơn nữa thì tuyệt hơn. Nhưng cái riêng của anh đó chính là sự chừng mực, chân thành và cảm thức Thiền.
Những bài thơ của anh với một giọng điệu chân thành. Chân thành với đời, chân thành vớingười và chân thành với chính mình trong ánh sáng khải huyền của Thiền đã neo đậu lòng người. Thời hiện đại, con người tất bật với những lo toan. Sống gấp. Những rào cản khiến khó mở lòng với nhau. Trong biển tha nhân kia, thơ anh là một chút của tin còn lại với thời gian: Thổi phần chua xót để phần yêu thương.
[1] Nguyễn Bá Hoà, tác giả của tập thơ Thuyền Hạnh_ Giáo viên trường Đại học Quảng Nam.
Sáng ngày 5 tháng 11 năm 2011, Chi hội VH Quảng Nam đã tổ chức gặp mặt các cây bút trẻ tại trung tâm của Hội VHNT Tỉnh Quảng Nam. Tham dự có Lương Mĩ Linh, Hoàng Nam, Thành Giang, Cẩm Giang, Hồng Phong, Huỳnh Định, Huỳnh Yên, Nguyễn Thị Trà Nguyên, Nguyễn Quốc Việt, Alăng Văn Gáo và các nhà thơ nhà văn cùng đến tham gia toạ đàm: Tiêu Đình, Phan Chín, Nguyễn Tam Mĩ, Lê Trâm, Phùng Tấn Đông, Phạm Tấn Dũng…
Sáng ngày 29/10/2011, tại giảng đường G1 đã diễn ra “Hội thảo nghiên cứu khoa học trong sinh viên” do Khoa Ngữ Văn tổ chức. Đây là Hội thảo nghiên cứu khoa học đầu tiên trong sinh viên đã huy động sự tham gia đông đảo của các bạn sinh viên trong toàn khoa – đánh dấu một bước khởi đầu cho những hội thảo nghiên cứu khoa học trong những năm sau.
Tại hội thảo lần này, Khoa Ngữ Văn còn xây dựng “Kỷ yếu hội thảo khoa học”, trong đó có 21 bài của sinh viên về các vấn đề Văn học Việt Nam, Văn học nước ngoài, Ngôn ngữ học. Sinh viên đã biết lựa chọn những đề tài nghiên cứu mới, chú trọng đến hiện tượng văn học đương đại như: Cao Hành Kiện, Mạc Ngôn, Marc Levi, Nguyễn Thị Ngọc Tư … Trong số đó có 5 bài được chọn báo cáo, đó là: “Thủ pháp huyền ảo trong kiếp sau của MacrLevy”, “Ngôn từ trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương”, “Sức sống mãnh liệt của người Tây tạng qua Thiên táng của Hân Nhiên”, “Motif con người cô đơn qua một số truyện ngắn của Nguyễn Thị Ngọc Tư”, “Sự trốn chạy quá khứ từ Ba Sương đến Tư Lan trong Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai”. Hội thảo Nghiên cứu khoa học trong sinh viên thực sự là diễn đàn khoa học để giảng viên, sinh viên có thể trao đổi những vấn đề học thuật.
Tôi là một người phụ nữ bình thường. Thích sự bình yên. Sụ sáng tạo. Trong cuộc sống, tôi muốn được trải nghiệm những cái mới. sống chân thành. Tôn trọng cá tính của mỗi nhân vị.