Thứ Ba, 13 tháng 3, 2012

Cho anh ngày biển khát

Cho anh ngày biển khát

Huỳnh Thị Thu Hậu

Biển

Gió rần rật cưỡi lên lưng sóng biếc

Lăn

Lăn

Em bên anh

Đôi tâm hồn quyện nhau

Cuốn

Cuốn

Tận cùng sâu

Tận cùng rơi

Rơi

Chiều cũng rơi

Lịm vào thinh không

Em lịm vào anh

Đắm đuối

Đâu tháng…

Đâu năm…

Đâu mùa…

Đâu tuổi…

Này gió yêu

Này mây bay

Này lời sóng khát

Lời yêu bùng vỡ

Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2012

ĐÂU RỒI GIẤC MƠ CỎ XANH

Huỳnh Thị Thu Hậu

Cuộc đời có những cơ duyên, tôi gặp nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh vào một ngày thanh minh tinh khôi và trong veo- ngày thơ việt Nam tại Điện Bàn. Và rồi, hạnh phúc khi được tặng thi phẩm Thơ tình Nguyễn Ngọc Hạnh vừa phát hành đầu xuân.

Tôi thao thiết đi tìm những cung bậc tình yêu trong thế giới nghệ thuật của thơ anh:

Em là bốn mùa hạnh phúc

Đã cho tôi đắm say, mật ngọt

Những nồng nàn, đắm say mãnh liệt của tình yêu đích thực:

Rồi thương em mà đâu biết làm gì

Tôi một mình lặng lẽ, đôi khi…

Thời gian vẫn vô tình đi qua, để lại trong anh những nhớ thương đau đáu một bóng hình:

Mới thôi

Mà đã một ngày

Tôi bơ vơ

Giữa đắm say nhớ người

Chiều rơi nhỏ nhẹ

Chiều trôi

Mình tôi

Đầy ắp khoảng trời không em

Đi tìm em hay cũng chính là hành trình tìm chính bãn ngã của mình, hành trình níu giữ và sáng tạo cái Đẹp. Vượt lên trên sự hữu hạn của thân phận, thơ anh là tiếng nói của mĩ cảm cứu rỗi cuộc sống:

“Tôi tin vào một nửa của kiếp trước và một nửa của kiếp sau. Tin vào cái đẹp.”

Dẫu biết rằng cái đẹp là mong manh dễ vỡ:

Em tan vào giữa cao xanh

Rơi như giọt lệ long lanh bên trời

Đã nhiều lần anh gọi tên những thanh âm đẹp nhất của cuộc đời đó là tiếng yêu thương: Lời yêu tách vỏ tiếng chim ra ràng, Lời yêu tôi nảy mầm.

Thơ tình Nguyễn Ngọc Hạnh gieo vào lòng người một niềm khắc khoải về thân phận con người:

“Người ta có thể mãi mãi xa lạ dẫu sống trọn kiếp nhưng chúng ta là khoảnh khắc mà vô tận…Cõi đời này rồi cũng phù du thôi. Chỉ là giấc mơ, thoáng chốc!”

Câu thơ mang cảm quan của tinh thần hiện sinh. Vì thế vô cùng nhân văn. Không né tránh mà trực diện đối thoại với chính mình trên hành trình tìm ra ý nghĩa sự sống.

Những bài thơ tình của anh ám ảnh bởi giọng điệu êm như lời nói khẽ. Giọng điệu tha thiết yêu đời, yêu người. Sự đa giọng điệu trong những lời thơ, có khi là một người con hoài nhớ về mẹ, về quê hương để lưu giữ hồn quê chân chất:

Đau đáu bên lòng

Một khúc ca dao

Chợ sớm chợ chiều dãi dầm đời mẹ

Thân cò dạt trôi

Bao mùa dâu bể

Mẹ một đời đứng tựa bờ ao

Qua đò nhớ mẹ

Anh gửi em sương sớm đầy hoa

Đường làng cũ một thời chung bóng

Những trưa nồng đu đưa tiếng võng

Hoa và dòng sông

Anh đã vẽ nên một bức tranh làng quê lung linh huyền diệu với làn sương và hoa đồng nội từ thẳm sâu kí ức cùng nỗi nhớ. Có khi đó là giọng điệu của một hiền triết: Mất mát là để tồn tại theo cách của mình, để được là mình.

Trong tình yêu, anh là một người tình sâu sắc. Bài thơ Hạnh phúc lăng lẽ là một sự bứt phá mang dấu ấn cách tân của anh. Ta bắt gặp ở đây sự xoá nhoà lằn ranh thể loại, bài thơ như một câu chuyện kể, mang hơi thở của truyện ngắn. Thơ văn xuôi là một thế mạnh phù hợp với phong cách phóng khoáng và lãng mạn trong con người anh: Đâu rồi giấc mơ cỏ xanh, Giấc mơ

Điểm nhìn nghệ thuật bên trong là con mắt thơ ở bài này. Anh viết về bi kịch của một người phụ nữ không có tri âm trong đời với chi tiết đôi mắt buồn:

…Lặng lẽ cam chịu như là số phận. Từng đêm vầng trăng ngoài ô cửa nhỏ kia không sẻ chia hết những u hoài trong đôi mắt thiếu phụ. Có điều gì thẳm sâu, ẩn ức nuối tiếc khôn nguôi…

…Lặng lẽ làm hết mọi điều để lấp đầy nỗi trống vắng mà sao vầng trăng cứ đi ngang qua ô cửa lạnh lùng. Ít ai biết bên ngoài sự tĩnh lặng là nỗi lòng của những ngọn sóng, của những cơn khát xô bờ…

Lặng lẽ đêm hoang vu

Lặng lẽ ngày mong đợi

Một mình.

Sự cách tân trong tập thơ này còn thể hiện ở những bài lục bát rơi như : Mưa ở Huế, Chông chênh, Ngập ngừng.

Đọc thơ của anh chúng tôi thật hạnh phúc vì như gặp chính mình. Lời của anh là lời của tri kỉ tri âm. Thơ anh tinh tế và neo đậu bằng sự ngọt ngào của một người đã sống và yêu sâu sắc từng khoảnh khắc của cõi mơ hồ buồn tênh phận mình. Những bài thơ giàu nhạc tính, tự nhiên và hồn hậu. Những bài thơ đẹp như một giấc mơ mãi miết đi tìm:

Đấy là khi bầu trời không còn bình yên

Khi gót chân em

Dẫm lên chiếc bóng hạnh phúc

Nhỏ nhoi dưới chân mình

Đâu rồi giấc mơ cỏ xanh

Anh đã đến và đã yêu cuộc đời này đến tận cùng. Cái Tình trong thơ anh luôn căng tràn, đó không chỉ là cái tình luyến ái mà còn là tình yêu làng quê, tình yêu con người, yêu thiên nhiên và trên hết là tình yêu cái Đẹp.

Tam Kỳ, ngày 29/2/2012

NHƯ CỎ DẠI NHƯ LÁ ÚA NHƯ CÂY XANH – SỰ HOÀ HỢP CỦA NHỮNG PHỨC ĐIỆU VÀ LINH MỘNG

Huỳnh Thị Thu Hậu

Trong cái ong óng, biêng biếc của mùa xuân, tập thơ Như cỏ dại như lá úa như cây xanh ra đời là một tín hiệu vui cho thơ Quảng Nam. Cầm trên tay tập thơ in chung của năm nhà thơ đầy cá tính: Nguyễn Chiến, Phạm Tấn Dũng, Phùng Tấn Đông, Huỳnh Minh Tâm, Đỗ Thượng Thế, tôi vô cùng xúc động. Đã lâu lắm rồi mới bắt gặp một tập thơ để lại nhiều suy tư. Đã lâu lắm rồi mới có một thanh âm lạ giữa những thanh âm đã rất quen thuộc.

Cảm xúc đầu tiên là sự trang nhã, ấn tượng của tập thơ. Những nhà thơ Bắc Thu Bồn rất trau chuốt khi chọn lựa màu giấy, tranh bìa. Màu giấy vàng thanh nhã và bức tranh đơn giản nhưng đa nghĩa. Năm mươi bài thơ được tuyển là những đứa con tinh thần đã được năm anh em hoài thai trong khát vọng vươn tới tận cùng con đường thi ca.

Có một phạm trù thơ và phạm trù siêu thơ. Như cỏ dại như lá úa như cây xanh nằm giữa lằn ranh của hai phạm trù đó. Một Nguyễn Chiến lãng mạn với Khúc tình mưa, ngày tình cũ, ngày trái tim lên ngôi. Một Phạm Tấn Dũng siêu thực cùng Tạ với thung xưa, Cảm giác. Một Phùng Tấn Đông hậu hiện đại Trình diễn thơ, Bài tìm thấy sau nhiều năm, Về một mùa xanh xa… Hùynh Minh Tâm, Đỗ Thượng Thế vừa hiện đại và hậu hiện đại.

Trước hết, tên thi phẩm Như cỏ dại như lá úa như cây xanh là biểu tượng cho sức sống mãnh liệt, cho cái đẹp buồn và mong manh. Tên thi phẩm gợi nhớ tập thơ Lá cỏ của Walt Whitman ( Tập thơ đặc biệt trí tuệ và thông minh của nước Mĩ đã ra đời – I-mơ-sơn). Mượn cái hữu hạn để nói cái vô hạn, thân phận con người.

Trên hành trình tìm kiếm bản ngã, tìm kiếm và sáng tạo cái Đẹp, họ đã gặp nhau. Năm phong cách, đa dạng nhưng thống nhất ở giọng điệu. Thơ của những thi mã Bắc Thu Bồn là thơ điệu nói. Giọng điệu thơ đẫm hơi thở của thời đại, của người trẻ:

tôi ơi em ơi

đừng nói đừng nhắc đừng gợi nhớ

mùa xa thẳm

những lau khô xám lạnh ven đường

( về một mùa xanh xa- Phùng Tấn Đông)

…Có con chim săn đuổi các dự định

Có cảm giác của một người thợ săn người đi câu người kị sĩ

Cảm giác là con thú mạnh con hươu con cá hồi con ngựa

Và ngược lại những dự định

Cảm xúc đi tìm mình tóm lấy mình cuỡi lên điều khiển

(Cảm giác – Phạm Tấn Dũng)

…Graffiti

Những giấc mơ Graffiti

Writer đánh cuộc đời mình

Đâu đó

Tiếng chim vừa thoát khỏi đường viền sương khói

(Graffiti- Đỗ thượng thế)

ta đứng dưới mây nhìn mây bay

ly sầu ly sầu mà chi cô đơn mà chi

tháng mười một cài hoa lên tóc

chảy trăng tứ xứ chuông ngân thành thót chuông vọng hồi

chuông ngân thánh thót mà chi

chuông nằm im trên vạt cỏ chuông treo trên tay người

từ đâu tới đây để ngóng vọng

vứt tiền qua cửa vứt đời qua cửa

mà không vứt được nỗi buồn…

( bài thơ tình yêu tháng mười một – Huỳnh Minh Tâm)

Tôi lạc về đâu

Chân trần bước lạc linh sa mạc

Chống chèo vô vọng

Giữa đại dương cuồng nộ

Lụt trời nước dựng

Sa mạc lớn dần

Ẩn ngữ thi ca

Không còn ai hiểu

Tôi ném đá vào tôi

Bầu trời ứa nguyệt

Cánh chim

(Đi lạc- Nguyễn Chiến)

Những câu thơ gấp gãy chứa đựng sức nặng triết lí, mang tính tư tưởng:

Bèo trôi lửa trôi

Bướm vàng cũng trôi

Mi rồi cũng trôi

Tau rồi cũng trôi

Trôi

Rồi trôi rồi trôi

(Giấc cỏ chỉ- Đỗ Thượng Thế)

Con chim núi là ta hay ta là con chim núi

Vút một tiếng tắt cổ

Bi thương và mê ly

(Bài thơ tình yêu tháng mười một – Huỳnh Minh Tâm)

Phảng phất trong thơ là niềm bi cảm của vẻ đẹp Á đông. Tựa hồ như quan niệm của Komachi trong bài thơ :

Hoa đào rơi

Nhan sắc phai rồi

Hư ảo mà thôi

Tôi nhìn thăm thẳm

Mưa trên đầu tôi

Những câu thơ đẹp và lạ đánh thức tâm trí người đọc:

Chuyện như sông

Chảy

Chảy

Chuyện như núi

Cao

Cao

Chuyện như biển

Sóng

Sóng

( Câu chuyện đời con người ta- Huỳnh Minh Tâm)

Thơ của họ là tiếng nói của những dự cảm mong manh, của tâm linh, trực cảm, của vô thức, cổ mẫu và giấc mơ:

Trong giấc mơ ngắn

Thường có giấc mơ đàn ông không biết về ranh giới

Nhặt những viên sỏi ủ dưới lòng sông mưa ngày

Ném trả về phía đại ngàn âm âm tiếng lá vỗ về

Tiếng nỉ non ve rừng nuốt cạn bờ sương triền suối

Rồi mơ cái nỗi ngâm chân của biển

Ngửa mặt hứng mưa trời thắt nhịp hoàng hôn

( Giấc mơ đàn ông- Phạm Tấn Dũng)

Đọc một đoạn thơ mà nghe thật sướng. Phạm Tấn Dũng đã nói được cái mơ hồ, không biên giới của giấc mơ. Có rất nhiều giấc mơ nữa thường trực trong mười bài thơ của anh:

Khi cơn mơ vừa sinh ra

Còn díu dan đói khát nỗi mong chờ

(Những ý nghĩ không rời)

Hay:

Cơn mơ không tự thức dậy

Tôi sinh tôi ở mảnh vườn khác

(Vườn Khuya)

Trong cảm hứng bất tận về giấc mơ, Nguyễn Chiến lại nói một cách khác:

Giấc mơ đầy tiếng ếch nhái

Cánh đồng khô cong

Lỗ nẻ lọt chân trâu

Mưa xanh mưa trắng mưa tràn

Giấc mơ mẹ già nụ trầu đỏ

Áo gấm thung thăng hội làng

( Giấc mơ- Nguyễn Chiến)

Đó là giấc mơ níu giữ vẻ đẹp của một thời vang bóng, của những giá trị vượt thời gian. Cũng giống như Đỗ Thượng Thế:

Giữa dòng nỗi mình phơi cạn

Ta lại mơ bống vàng từng thiêng lòng giếng

(Giữa dòng)

Như cỏ dại như lá úa như cây xanh là sự phá vỡ ranh giới thể loại. Thơ văn xuôi với những bứt phá về lạ hoá ngôn ngữ:

…đếm và gõ thăng hoa đến hạn đến lúc hắn tự biết trình diễn thơ hay thơ trình diễn sau rốt không quan trọng đến khi cử toạ ồ à wov…

(Trình diễn thơ- Phùng Tấn Đông)

Sự lạ hoá ngôn ngữ kia còn là những khoảng lặng biết nói trong thơ của Đỗ Thượng Thế:

Ngày ---tháng----khởi hành bão táp

Soi bống bống bang bang…

Xác ánh đèn phố bụi

Lẫm chẫm …lẫm chẫm suơng chiều…

Trong năm phong cách thơ- Phùng Tấn Đông là người để lại nhiều ám ảnh nhất. Vì trong thơ anh có vẻ đẹp của yếu tố Kinh dị kiểu Edgar Poe. Những hình ảnh trong mười bài thơ của anh không thuộc kiểu hình ảnh theo vẻ đẹp truyền thống quen thuộc. Mà đó là những biểu tượng của yếu tố Kinh dị: cuốc kêu trăng chảy máu, thủa thịt da chớp dật giông gió kéo về em thơm con sùng đất, gặp lũ ma đêm – chơi trò cút bắt, là thách thức cũng là niềm kinh sợ, mặt tròi ngún khói, đồng cỏ trôi lem nhem bóng tối, cơn gió mịn mướt lông măng thổi rợn mặt người,, tiếng mèo hoang gào gío bấc, trăng đỏ ngả ba đường, từng cơn hú hét thét gào trận gió nửa đêm những lòng khe cạn, những vọng âm của sự chết tan trong lưỡi vị máu mặn hay tanh, hắn đang gõ vào chiếc đầu lâu của hắn từng nhịp lốc cốc…

Sự cách tân của các anh trong tập thơ này không nằm ở chuyện hình thức hay là lạ hoá câu chữ. Những nhà thơ Bắc Thu Bồn đã góp phần hiện đại hoá cho thơ Quảng Nam bằng chính chiều sâu thăm thẳm của linh ngôn, của trải nghiệm với con người thứ hai –con người của vô thức huyền bí. Thơ của các anh là tiếng nói dự cảm của thế giới đổ vỡ, rạn nứt, thơ giải thiêng, thơ chống lại sự giáo điều, mực thước, khuôn mẫu.

Phần lớn các bài thơ có tứ đẹp: gởi X, điệu buồn ru tuổi thơ tôi, giấc mơ đàn ông, kì khu thơ, câu chuyện đời con người ta, giấc cỏ chỉ, giấc mơ…

Giá trị của tập thơ không chỉ nằm ở kĩ thuật viết độc đáo mà còn nằm ở tư tưởng nhân văn, thông điệp mĩ cảm mà nó chứa đựng. Đối với các anh, thế giới phải được liên tục định nghĩa lại và để làm được điều đó, họ liên tục khám phá những góc nhìn mới để không lặp lại người khác và không lặp lại chính mình của ngày hôm qua. Vì vậy để đọc được Như cỏ dại như lá úa như cây xanh với lí trí thôi chưa đủ, chúng ta cần phải đọc bằng cả tâm hồn, trái tim, sự trải nghiệm của tiếng nói bên trong. Mượn lời của nhà thơ Huỳnh Minh Tâm, người viết kết thúc lời giới thiệu của mình:

Trước khi viết một câu thơ

Thả một hạt sen xuống hồ

Khóc ba ngày

Cá mang hạt sen ba ngày giấu dưới bùn đen

….

Sau khi viết một câu thơ

Cười ba ngày

Hoa nở một bông mùa bấc

Sống lưng lạnh buốt