Thứ Tư, 29 tháng 12, 2010
Cánh đồng bất tận
Giáng sinh vui cùng Nấm
Thứ Hai, 6 tháng 12, 2010
Refresh
Thứ Tư, 1 tháng 12, 2010
Chuẩn bị tập huấn web 2.0
Thứ Tư, 24 tháng 11, 2010
Tái sinh -Truyện của Hậu
TÁI SINH
L gọi cho Q từ thành phố S xa xôi: “Ngày nào anh cũng đọc blog của em. Không có anh để khóc khi bất bình ức uất, nhưng phải cố lên. Sống phải đấu tranh không được bi quan vì nó đồng nghĩa với đầu hàng. L một mình ở thành phố S lãng mạn, với lá vàng, với cái rét buốt. Và cô đơn. Và nhớ Q cháy bỏng. Sau hội thảo, L tranh thủ đi hiệu sách để mua tặng Q những cuốn truyện. Đó là thói quen đáng yêu mà L có từ khi yêu Q. Mỗi cuốn sách là một kỉ niệm về những nơi L đã đi qua. L đã từng ghi : “Love isnts everything for me but help me can do everything” trong cuốn Lụa khi gửi cho Q.
L bao giờ cũng bận rộn. Mực thước. L yêu Q vì Q là một thế giới khác. Q tài hoa. Lãng mạn. Toàn làm những điều bất ngờ. Không định sẵn. không lập trình. Không kế hoạch. Khi L đang tối mắt, tối mũi vì họp hành nơi công sở thì Q gọi: “Anh ơi, cà fe nhé!” Mùa đông ướt sũng không ánh nắng mặt trời Q gửi tin: “Anh ơi đi ra biển cùng em. Ở đây em thấy ngạt thở vì sự kèn cựa và đố kị”.
Một mình với mùa đông ở S. L thấy nhớ Q da diết. Nhớ mái tóc mây vàng mềm như nhung. Nhớ ánh mắt biết cười. Nhớ đôi bàn tay ấm áp. Q đam mê công việc. Nhiệt tình với một ngọn lửa trong tim. L luôn cảm thấy bất an trong tình yêu của Q. Vì không bao giờ nắm bắt được Q. Q cho rằng cuộc đời là một cuộc chơi. Hãy vui chơi hồn nhiên như đứa trẻ. Công sở và văn phòng chỉ là những mê cung khiến anh đánh mất mình. Khi quen Q, L đã nghe rất nhiều lời đồn. Đám con gái cơ quan L kháo nhau: “ Q đa tài. Đa tình”. Chị L thì bảo : “ Con gái viết truyện, làm thơ như Q làm người tình thì thích chứ làm vợ thì mệt lắm.” Bạn thân L bảo: Q là người sống bản lĩnh, phong cách, chân thành. Hiếm đó. Cố mà giữ.” Riêng L mới hiểu đằng sau vẻ cứng cỏi, mạnh mẽ thì Q là người rất yếu đuối, hay khóc một mình khi cô đơn. Sống tình cảm nên dễ bị tổn thương. Thích sự công bằng và khẳng định được mình. Rất cứng đầu. Q thích mặc áo dài lụa đến trường. Yêu những lối đi với hoa cúc dại vàng trong khuôn viên của trường. Có lần, Q tâm sự cùng anh Q đã phản biện lại đồng nghiệp. Họ vô lí quá. Những thói quen cũ mòn. Những quan niệm cũ mòn. Dù thế nào Q vẫn luôn sáng tạo. Vẫn thử nghiệm những phương pháp mới. Chỉ cần nhìn ánh mắt học trò là Q biết mình được tiếp thêm sức. Và anh nữa.
Từ ngày anh đi. Đêm nào Q cũng nằm mơ. Mộng mị. Q lạc anh giữa đám đông. Q rất ghét đám đông. Nhìn ai cũng giống nhau. Xét nét. Giữ kẽ. Níu áo nhau. Những nụ cười không một chút thật thà. Đãi bôi. Mà nụ cười Q thì tràn đầy. Rồi Q thấy mình trên đỉnh mây mưa. Những cơn mưa tái sinh. Chợt Q bị đuổi bắt bởi một con rắn. Bản năng sinh tồn trỗi dậy. Q cố chạy. Nhưng càng cố càng không thể. Một tiếng kêu xé màn đêm vỡ ra.
Q thức dậy trong hỗn mang cảm xúc. Không thể ngủ lại. Q mở máy tính ra viết blog: Thơ cho L: Em chạy trốn anh.Chạy trốn chính mình. Chạy trốn nỗi nhớ. Nhưng ánh mắt anh.Nụ cười anh. Giọng nói ấm áp.Vẫn ám ảnh em. Mỗi hoàng hôn. Mỗi ban mai. Em muốn được hiến dâng. Được tái sinh. Được ở trong anh.Dịu dàng. Đắm say. Em sợ sự nhàm chán. Sợ vòng quay vô hình. Cuộc sống cần có những. hồi hộp. Đợi chờ. Khát khao. Em không cần mực thước. không cần sự đạo mạo.Trang nghiêm.Chỉ cần em được là một người đàn bà đích thực. Em bất cần.Khi đứng trước sự bon chen. Ghen tị nhỏ nhen.Bởi đời sống của em. Là bầu trời Thênh thang Ngoài ô cửa Là những thảo nguyên mênh mông.Là những cảm xúc.Vô biên.Anh ơi đừng tỉnh nữa.Để em được yêu anh.Để lúc nào giữa chật hẹp của lộ trình định sẵn. Anh nhớ đến em. Để bên anh. Em là người đàn bà đích thực.
Và Q lại nằm mơ. Những cơn mưa tái sinh.
Thứ Ba, 9 tháng 11, 2010
Truyện của kafka
Hồi đó trời còn rất sớm, đường phố trong lành và vắng tanh, tôi đi ra ga. Khi tôi so đồng hồ của tôi với đồng hồ trên tháp, tôi thấy rằng, đã muộn hơn rất nhiều so với tôi đã từng tưởng, tôi phải thật khẩn trương, nỗi hốt hoảng bởi sự phát hiện này làm cho tôi không còn tin vào con đường mình đang đi nữa, tôi vẫn chưa tỏ tường về thành phố này lắm, may quá lại có một người công an đứng ở gần đấy, tôi chạy đến chỗ anh ta và hỏi đường một cách gấp gáp không kịp thở. Anh ta cười và nói: "Cậu muốn ta chỉ đường đi ư?" "Phải", tôi đáp, "bởi vì tôi không thể tự mình tìm được." "Bỏ cuộc đi! Bỏ cuộc đi!", anh ta nói rồi quay đi với những bước chân dài, như thể là những người chỉ muốn cười một mình.
1915
Cổ Nhuế chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Đức
Thứ Sáu, 5 tháng 11, 2010
Ngẫu hứng
L said that. Now Where L is? I wish Past return to live!
Thứ Tư, 3 tháng 11, 2010
chông chênh
CHÔNG CHÊNH
Chông chênh nắng
Chông chênh mưa
Hạ bâng khuâng đỏ
Thu mong manh vàng
Chông chênh nhớ
Chông chênh thương
Em chông chênh giữa
đôi bờ tim anh...
Thứ Hai, 1 tháng 11, 2010
Miền của em
MUỘN
Huỳnh Thị Thu Hậu
Em biết rằng em là người đến muộn
Chỉ một bước chân sao chẳng thể sánh cùng
Em biết rằng em là người đến muộn
Có chị ấy rồi liệu anh còn yêu em
Em giận mình rồi giận cả câu ca
Sao không nói hộ lòng em sóng cả
Đâu biết rằng câu ca nào có tội
Anh vô tình anh chỉ biết đấy thôi
Trăng muộn là trăng tròn hơn cả
Hoa muộn là hoa của yêu thương
Tình muộn là tình chưa dám ngỏ
Yêu anh nhưng chẳng thể tỏ bày
Không thể yêu ừ! Riêng em đứng đợi
Chỉ xin làm bến đỗ nơi anh qua
Dẫu biết rằng tàu anh không dừng lại
Nhưng chẳng thể nào mặt đất thiếu sân ga.
Vô thường
Thứ Tư, 27 tháng 10, 2010
Gió đông
Mong manh!
Thứ Tư, 13 tháng 10, 2010
ICT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG
KHOA XÃ HỘI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
------------ -----------------------
Tam Kỳ, ngày 13 tháng 9 năm 2010
TỜ TRÌNH
KẾ HOẠCH TẬP HUẤN NHÂN RỘNG CHO SINH VIÊN
VỀ CNTT CHO DHTC VỚI SINH VIÊN
Kính gửi: - Lãnh đạo nhà trường
- Điều phối viên CNTT VVOB của trường
Đại học Quảng
Căn cứ kế hoạch của VVOB về chương trình đổi mới giáo dục “Dạy học theo hướng tích cực” năm học 2009 - 2010;
Căn cứ kế hoạch tập huấn nhân rộng trong chương trình hợp tác với VVOB;
Căn cứ vào mục tiêu, kế hoạch giảng dạy của nhà trường năm học 2010 – 2011.
Nhóm chuyên gia CNTT – Khoa Xã hội kính trình lên lãnh đạo nhà trường, điều phối viên CNTT VVOB kế hoạch “Tập huấn nhân rộng” như sau:
I. Mục Tiêu:
Vào các thập niên cuối thế kỉ XX, ở một số nước phát triển, các ứng dụng CNTT đã từng bước được triển khai từ cấp học phổ thông cho đến đại học. Ngày nay, ứng dụng CNTT trong dạy học đã trở thành xu thế có tính chiến lược của giáo dục hiện đại.
Ở nước ta, Đảng, Nhà nước và ngành Giáo dục đã ban hành các chủ trương về việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong nhà trường, như Nghị quyết 49/CP của Chính phủ(1993),chỉ thị 58-CT/TW của Bộ chính trị(2000)…. Và gần đây là công văn số 12966/BGDDT-CNTT(2007) Bộ GD&ĐT về việc thực hiện năm học 2008-2009 là Năm học Công nghệ thông tin.
Qua hai năm tham gia chương trình đào tạo CNTT do VVOB tổ chức, chúng tôi nhận thấy hiệu quả tích cực của chương trình đối với dạy học tích cực.
Xuất phát từ thực tế giảng dạy của nhà trường, sinh viên các lớp sư phạm rất cần được tập huấn kĩ năng ứng dụng CNTT vào quá trình học để sau này tự tin bước vào nghề. Cụ thể ở đây là ứng dụng các phần mềm mindmap và powerpoint, webquest, photostory.
II. Đối tượng:
Sinh viên 3 lớp – khoa Xã hội:
- Đại học Ngữ Văn K09: 55 sinh viên
- Đại học Ngữ Văn K08: 49 sinh viên
- Cao đẳng Văn – Công dân K08: 56 sinh viên
III. Nội dung tập huấn:
1. Ứng dụng phần mềm mindmap (sơ đồ tư duy)
2. Ứng dụng phần mềm MS Powerpoint
3. Ứng dụng Web quest
4. Ứng dụng Photostory
IV. Thành phần tham dự:
1. Chuyên gia tập huấn:
- Huỳnh Thị Thu Hậu (Chuyên gia CNTT của VVOB) – Khoa Xã hội
- La Vĩnh Lộc (Chuyên gia CNTT của VVOB) – Khoa Sư phạm
2. Nhân viên kĩ thuật hỗ trợ cho hội thảo:
- Trần Nguyễn Quốc Văn - Trung tâm KLF
- Lê Văn Cường – Trung tâm KLF
3. Ban tổ chức:
- Trịnh Minh Hương (PT. Trưởng Khoa) – Phụ trách chung
- Huỳnh Thị Thu Hậu (Khoa Xã hội) – Lập kế hoạch
- Nguyễn Thị Hồng Sanh (Giáo vụ) – Tổ chức và Quản lý lớp học
- Huỳnh Thị Tâm Như (Giáo vụ) – Tổ chức và Quản lý lớp học
V. Thời gian tập huấn:
STT | Lớp | Số lượng | Thời gian | Địa điểm |
1 | ĐH Ngữ văn K09 | 55 | 18&19/09/2010 | Tầng 2 KLF |
2 | ĐH Ngữ văn K08 | 49 | 16&17/10/2010 | Tầng 2 KLF |
3 | Cao đẳng Văn – CD K08 | 56 | Chiều 20/09/2010 Chiều 25/09/2010 Chiều 27/09/2010 Chiều 02/10/2010 | Tầng 2 KLF |
VI. Đề xuất :
1. VVOB hỗ trợ kinh phí cho ban tổ chức, kinh phí cho chuyên gia tập huấn theo quy định của VVOB, kinh phí để mua văn phòng phẩm cho hội thảo, kinh phí trà nước, kinh phí hỗ trợ cho nhân viên kĩ thuật; VVOB cung cấp đĩa DHTC cho SV và tài liệu tập huấn.
2. Nhà trường bố trí phòng tập huấn, cụ thể tầng 2 khu KLF.
3. Nhà trường chuẩn bị trang thiết bị như máy tính cho sinh viên thực hành, máy chiếu, bản phụ.
DUYỆT CỦA LÃNH ĐẠO KHOA DUYỆT CỦA LÃNH ĐẠO TRƯỜNG
PTTK. TRỊNH MINH HƯƠNG
Thênh thang
Thênh thang
Em chạy trốn anh
Chạy trốn chính mình
Chạy trốn nỗi nhớ.
Nhưng ánh mắt anh
Nụ cười anh
Giọng nói ấm áp
Vẫn ám ảnh em
Mỗi hoàng hôn
Mỗi ban mai
Em muốn được hiến dâng
Được tái sinh
Được ở trong anh
Dịu dàng
Đắm say
Em sợ sự nhàm chán
Sợ vòng quay vô hình
Cuộc sống cần có những
hồi hộp.
Đợi chờ
Khát khao
Em không cần mực thước
Không cần sự đạo mạo
Trang nghiêm
Chỉ cần em được là một người đàn bà đích thực.
Em bất cần
Khi đứng trước sự bon chen
Ghen tị nhỏ nhen
Bởi đời sống của em
Là bầu trời
Thênh thang
Ngoài ô cửa
Là những thảo nguyên mênh mông
Là những cảm xúc
Vô biên
Anh ơi đừng tỉnh nữa
Để em được yêu anh
Để lúc nào giữa chật hẹp của lộ trình định sẵn
Anh nhớ đến em
Để bên anh
Em là người đàn bà đích thực.
Huỳnh Thu Hậu
Ngày thu thương nhớ
Thứ Năm, 7 tháng 10, 2010
Khoảnh khắc Hội thảo
Thứ Năm, 19 tháng 8, 2010
Sang thu
Thứ Ba, 13 tháng 7, 2010
Tinh khôi
Gian nan nẻo đường đưa con vào mẫu giáo
Thứ Tư, 7 tháng 7, 2010
Sach hay
- Tựa sách:Bác sĩ Zhivago
- Tác giả:Boris Pasternak
- Ngôn ngữ:Tiếng Việt
- Lĩnh vực:
- Dịch giả:Lê Khánh Trường
- Năm xuất bản:2006
- Đơn vị xuất bản:NXB Phụ nữ
- Số trang:870
- Giá sách:98.000 VND
-
NHỮNG NGƯỜI TÌNH LẠC NHAU
Là bộ tiểu thuyết sử thi vĩ đại bởi nó đặt ra vấn đề số phận con người - tình yêu trong những dòng xoáy của lịch sử, sự dằn vặt của lương tri về tính thiện của con người. Đằng thằng ra nó là như thế. Nhưng trong số đông người đọc, Bác sĩ Zhivago trước tiên là một chuyện tình đau đớn, những người tình như những con tàu được đặt trên cùng một tuyến ray đối đầu nhau. Nếu hình dung nội dung của Bác sĩ Zhivago là tổng hòa của những lát cắt thì lát cắt này chính là lát cắt người nhất của bộ tiểu thuyết.
Yurri Zhivago là nhân vật chính. Nhưng Lara lại được người đời nhắc nhớ đến nhiều hơn. Nàng đẹp. Nhưng tình yêu đầy bi kịch của nàng còn đẹp hơn. Yuri là kẻ đã có gia đình, một gia đình hạnh phúc, chàng yêu vợ mình - Tonya, yêu con - Sasha. Cũng như Yuri, Lara yêu chồng - Pasha Antipov (tức Strelnikov), yêu con - Katenca. Sẽ chẳng có gì xảy ra cả nếu định mệnh không đưa họ đến với nhau. Họ - dường như là những kẻ đã lạc nhau trong kiếp trước, chỉ một thoáng chạm vào nhau trong kiếp này, khoảng cách thời gian, không gian đã bị xóa nhòa để họ có nhau. Nhưng nói như Shakespeare là “trong sổ đoạn trường tên chúng tôi cùng ghi ở một dòng” (Romeo và Juliette). Định mệnh trớ trêu là thế.
Gặp Lara, yêu và được yêu, sau khi bay lên đến những tầng cao chất ngất yêu đương, chuyện dan díu lại khiến Yury bị dằn vặt. Và chàng đã thú nhận với Tonya. Thế rồi họ lại lạc nhau để khắc khoải gọi nhau. Trong cô đơn cùng quẫn, Yurri bương qua họng súng, lội tuyết chỉ để tìm một bóng cây thanh lương trà - hình ảnh để chàng có thể hình dung rõ ràng hơn về người tình Lara của mình. “Cây thanh lương trà bị ngập tuyết đến lưng chừng, còn nửa ở trên thì bị đông cứng vì băng. Chàng chợt nhớ đến hai cánh tay mập mạp, trắng nõn của Lara, hai cánh tay tròn lẳn và hào phóng của nàng. Chàng bèn ôm lấy hai cành thanh lương trà, kéo cả cái cây lại với mình. Như đáp lại tấm lòng của chàng, cây rũ tuyết rơi lả tả xuống khắp người chàng. Chàng lắp bắp mà không hiểu mình nói gì và chẳng còn nhớ mình là ai nữa. Ta sẽ gặp lại em, người đẹp của ta, nữ hoàng của ta, thanh lương trà yêu dấu của ta, máu thịt của ta”… Ngay sau đó Zhivago đã trốn khỏi trại lính để lên đường tìm Lara. Trong tâm trí của Zhivago, chàng bị giằng xé giữa Tonya và Lara nhưng chàng cũng biết mình thương nhớ Lara nhiều hơn vợ con mình. Có nhạc sĩ đã viết “tình yêu vô tội…” “tình yêu như trái phá con tim mù lòa…” đấy thôi.
“Để em nói anh nghe. Giả dụ Strelnikov lại trở thành Pasha Antipov. Giả dụ anh ấy điên cuồng và nổi loạn. Giả dụ thời gian quay ngược lại. Giả dụ ở một nơi xa xăm nào đó, tận cùng trời cuối đất, nhờ một phép lạ, chợt le lói ánh đèn của sổ nhà em soi xuống các cuốn sách trên bàn viết của Pasha, thì có lẽ em sẽ tới đó, dù phải bò lết bằng hai đầu gối. Tình xưa nghĩa cũ sẽ lại trỗi dậy trong lòng em. Em sẽ đi theo tiếng gọi của dĩ vãng và lòng chung thủy. Em sẽ hy sinh tất cả. Ngay cả điều quý giá nhất. Cả anh. Cả sự gần gũi của em đối với anh, một sự gần gũi nhẹ nhàng, tự nhiên… Ôi nhưng em yêu anh…”.
Sự giằng xé giữa bổn phận và tình yêu luôn dày vò Zhivago. Nó khiến Zhivago như bị tách ra thành những mảnh nhỏ, rồi lại nhập vào… tách ra trong đớn đau. Zhivago quen với nó như quen với vết thương không thể nào khép miệng. Khi Zhivago thuyết phục mẹ con Lara ra đi để được sống, để được hạnh phúc và trong chừng mực nào đó còn là để nàng tìm thấy Pasha là lúc anh hy vọng rằng cách xa sẽ làm nhạt nhòa dần. Cho anh và cho cả Lara. Khi nghĩ về bổn phận, Zhivago tin rằng lời điều mình làm là đúng. Khi nhớ Lara anh lại quay quắt với thương yêu.
Yêu ai và không yêu ai đó hóa ra thật sự không hoàn toàn do ta quyết. Có những sự thật buộc phải chôn chặt vĩnh viễn trong tim óc. Những sự thật ấy khiến người ta như con lắc đong đưa chứ không thể lệch hẳn về một phía. Những tình yêu như Zhivago - Lara, như Lara - Pasha là những tình yêu của định mệnh, nằm ngoài ý muốn của logic lý trí, nó chạy theo những vệt mờ của con tim và không ai nhìn thấy phía trước là gì. Tình yêu định mệnh không thể cưỡng. Và người ta chỉ nhìn thấy nó trong ánh sáng của hai người. Với số đông nó là phi lý. Phi lý như sự nhầm lẫn của Lara và cả Zhivago. Cả hai đều nhầm. Họ tưởng rằng cách xa sẽ làm nhạt nhòa, rằng người này sẽ nhận phần đau đớn hơn người còn lại, và cứ thế nỗi khổ sở trong kẻ ở lại sẽ ít hơn trong lòng người ra đi. Lara tin thế cũng như Zhivago tin thế. Và họ lạc nhau vĩnh viễn.
Khi đọc Bác sĩ Zhivago, đến đoạn này bất giác tôi đã tin rằng họ sẽ mất nhau, vĩnh viễn sẽ không còn nhìn thấy nhau nữa và chợt nhớ bài thơ Tiễn của Trần Quốc Thực trong đó có hai câu: Tiễn nhau một bận qua bậu cửa/ Tiễn nhau lần nữa trong chiêm bao… Và ca khúc Hối tiếc tự nhiên vang vọng bên tai: Còn gì nữa đâu mà khuyên nhau hẹn hò. Tình như vó câu một bước trăm ngàn sầu... Còn gì nữa đâu, còn gì nữa đâu. Tình yêu đắm sâu đau đớn khi rời nhau. Một người bước mau, người quay đi nghẹn ngào. Chờ Em hút sâu. Anh quay lại với sầu…
Trong những ngày cô đơn ấy, thật trớ trêu Zhivago gặp Pasha. Sau một đêm trò chuyện, cuối cùng hai người đàn ông cùng yêu một người đàn bà đã ngủ thân thiện bên nhau dưới một mái nhà. Người này kính trọng người kia và cùng biết mình được yêu. Sáng ra Pasha tự sát. Pasha tin rằng đó là con đường giải thoát để mẹ con Lara hạnh phúc. Cách thoát khỏi tình huống của Pasha quyết liệt và không một chút cay đắng, trách móc gì. Pasha chết trong cô đơn trên bãi tuyết mênh mông. Điều mà Pasha cần là tình yêu, anh xác tín nó từ chính Zhivago. Thế là đủ. Được chết và chết được với Pasha là cập bến cuối. Pasha tin với Zhivago, Lara sẽ hạnh phúc, con mình sẽ hạnh phúc. Anh chết đi, Zhivago và Lara sẽ là con lắc dừng lại ở điểm giữa. Hỡi ôi, cả Pasha cũng nhầm nốt…
Nỗi nhớ mong chính là cây thập giá đè nặng trên vai Zhivago. Chín năm sau, anh ngã vật xuống mặt đường lát đá và chết trong nỗi hoài nhớ Lara đến tuyệt vọng. Nhiều năm sau Lara biệt tích và chết trong một trung tâm lao động trong thời gian bị lưu đày. Pasha chọn lối thoát bằng một viên đạn ít ra anh ta chết khi tất cả những câu hỏi, những dằn vặt của anh đã có câu trả lời; Zhivago chết vì con người ta không thể sống như một con lắc với hai điểm nhớ mong tận cùng tuyệt vọng; Lara chết trong cô đơn, không có người đàn ông nào của nàng bên cạnh. Không ai ân hận, không ai trách cứ gì nhau, và dường như người đọc cũng tin rằng không có gì đổ vỡ. Tất cả chỉ là sự tình cờ của số phận và cuộc đời thỉnh thoảng vẫn cay nghiệt thế. Ta biết để có thể bao dung hơn, vậy thôi.
Những người yêu nhau không sống được cùng nhau, dẫu biết rằng mong manh vẫn thường hẹn kiếp sau. Lát cắt người nhất trong Bác sĩ Zhivago là những người tình lạc nhau từ kiếp trước, tìm thấy nhau trong kiếp này và rồi phải khóc trong thinh lặng. Đọc Bác sĩ Zhivago lại càng thêm tin rằng hãy yêu nhau hơn nếu có thể. Đừng hò hẹn lần lữa, đừng chờ
Thứ Ba, 6 tháng 7, 2010
Lời nguyện cũ trên đầu như nguyệt quế
Khúc mùa thu
Vẫn biết ta giờ không trẻ nữa Sao thương ai ở mãi cung hằng Lời nguyện cũ trên đầu như nguyệt quế Trăng chỉ nhòa khi tới giữa mùa trăng Tôi đã yêu đã yêu như chết là hạnh phúc Tôi đã quên mình chỉ để nghĩ về em Người đàn bà dấu đêm vào trong tóc Còn điều chi em mải miết đi tìm. Tôi đã đến cùng em và tôi biết Em cũng là như mọi người thôi Nhưng chưa hết cuộc yêu tôi đã hiểu Em ám ảnh tôi trọn một kiếp người Ngay cả nếu âm thầm em hóa đá Bầu trời lặng yên cũng đã vỡ rơi Mênh mông quá khoảng trống này ai lấp Khi thanh âm cũng bất lực như lời Sẽ chỉ còn mùa thu thuở ấy Nỗi cô đơn vằng vặc giữa trời Người đàn bà dấu đêm vào trong tóc Em tìm gì khi thất vọng về tôi
Nhật kí cho đỉnh bình yên
NHẬT KÍ CHO ĐỈNH BÌNH YÊN
Huỳnh Thị Thu Hậu
Trường Đại học Quảng
VIẾT CHO NGÀY MƯA!
Sáng nay thức dậy nhìn trời mưa tôi muốn được nằm vùi trong chăn một lát nữa. Mở bài Phiên chợ Ba Tư nghe. Huế ngày xưa lại hiện về trong kí ức. Con đường phượng bay. Dòng Hương những chiều vàng. Hoàng hôn trên đỉnh cột cờ…Tôi đã từng trải qua những khoảnh khắc tự tại với bầu trời rộng rãi. Tôi gọi anh là bầu trời rộng rãi vì anh luôn hướng tôi đến với sự an nhiên, đến với cỏ cây, với âm nhạc, với những suy nghĩ tích cực, với lí tưởng về một cuộc sống ý nghĩa.
Một ngày mưa. Thấy nhớ một người. Vì sự du dương, ngọt ngào, trong sáng của âm thanh hay vì lòng thênh thang với những ý tưởng đẹp.
Đến
Anh đến. Vẫn ánh mắt tinh anh và tài tử. Mang cho tôi mấy đĩa nhạc không lời. Anh thích chia sẻ về niềm yêu thích âm nhạc và văn học cổ điển. Đặc biệt là những tác phẩm văn học nước ngoài. Cũng từng là sinh viên khoa văn, ra trường công tác bên ngành công an. Anh sắc sảo trong đánh giá, hiểu biết rộng. Bạn bè bảo nhau ông trời sống không cân. Bao nhiêu ưu thế đều tập trung ở anh. Đẹp trai. Có nhiều tài, đánh cầu lông giỏi, hát hay. Nhất là ngón đàn. Ngón đàn mê hồn và ánh mắt liêu trai.
VIẾT CHO NGÀY NẮNG
Một cái tên. Một con người. Một cá tính. Một tâm hồn. Tại sao mình không gặp được nhau sớm hơn? Những giấc mơ và niềm say mê vì bổn phận tưởng đã ngủ yên lại trỗi dậy trong em. Ngoài kia, cả một bầu trời rộng rãi, tiếng chim hót ríu rít trong vườn em hay tâm hồn em đang ríu rít? Nắng vàng hơn và bướm quấn quít nhau hơn. Dù thế nào em cũng cảm ơn cuộc đời đã cho chúng ta được gặp nhau và được làm bạn của nhau. Khi em bên anh, thời gian như ngừng lại. Khi em bên anh, sự bình yên lên ngôi. Anh là chú ngựa dũng mãnh. Em là cánh đồng cỏ mềm mại nằm dưới vó ngựa kiêu hùng kia. Nồng nàn là em. Đắm say cũng là em. Dịu dàng là em. Mãnh liệt cũng là em. Hãy cùng em thăng hoa với bất tận cao xanh, trong sự hòa hợp của tâm hồn. Bây giờ. Và mãi mãi
Nắng sóng sánh sẽ mang ý tưởng đẹp của em đến cùng anh.
VIẾT CHO NGÀY XA
Cuộc đời là một chuỗi các cuộc hành trình. Đến và đi. Sáng nay tôi lại được đi xa. Xa với thành phố bé nhỏ của tôi. Hội thảo về công nghệ thông tin trong giảng dạy tại thành phố Quãng Ngãi. Một ngày mới gắn với việc học được những kĩ năng mới luôn có sức quyến rũ với tôi. Tôi như thấy mình mới hơn, thật sống hơn. Anh lại gọi điện và động viên tôi cố gắng hoàn thành các công việc của hội thảo. Chợt nhớ lúc sáng anh và tôi ngồi café đợi xe đi. Bồi hồi. Trong màn sương huyền thoại của tháng ba, tôi ngồi nhìn con đường trước mắt. Chỉ toàn sương là sương. Sương vương tóc tôi. Bao bọc tôi. Sương đang tan trong miệng tôi. Tôi chợt nhớ có lần anh đã kể tôi nghe câu truyện người ăn gió và quả chuông bay đi . Tôi đang ăn sương. Không biết ở công sở anh có linh cảm được điều đó không?
MƯA THẢO NGUYÊN
Anh kể tôi nghe về bản nhạc
Tôi chăm chú nhìn phần trình bày của học trò. Những bài tập tôi giao cho các bạn được gửi lại qua email. Văn học Hi Lạp, Tây Ban Nha, Anh, Pháp…Các bạn thật năng động. Tôi nhận xét từng bài. Hình ảnh mà các bạn đưa vào nhiều lúc chưa trật tự nó tạo nên sự khó hiểu. Anh giúp tôi, lấy thêm nhạc để cài vào cho phù hợp. Bài santorini cho văn học Hi Lạp, bài
Tôi đang ngồi thưởng thức ngón đàn của anh. Những ngón tay chở đầy tâm trạng. Và lúc nào tôi cũng thích màu quân phục công an của anh. Trong quân phục này, anh chững chạc, chuẩn mực, đầy tin cậy. Một cảm giác được chở che. Công việc của những người như anh rất thiêng liêng, cao cả. Bảo vệ sự bình yên cho mọi người. Tôi hay nói về nghề anh. Từ ngày còn ở Huế tôi đã đọc Tội ác và trừng phạt của Dos. Tôi mang cho anh mượn. Cuốn sách viết về tâm lí tội phạm. Tôi hiểu được những gian khổ và nguy hiểm trong nghề của anh. Lấy lí trí, tình cảm và nhân cách để giáo huấn cho những kẻ sống theo bản năng. Trong cuộc chiến đấu vì sự bình yên của nhân dân, anh cũng trải nghiệm được nhiều.Cuộc sống hiện đại, tội phạm ngày càng nguy hiểm và tinh vi. Anh và đồng nghiệp của mình càng cần cố gắng hoàn thiện hơn nữa.
GiẤC MƠ
Những ngày hội diễn văn nghệ của nghành công an, tôi cùng bạn bè đi cổ vũ cho anh. Tại đây, tôi đã khóc khi xem tiết mục múa về hình tượng người chiến sĩ công an đã anh dũng hi sinh trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự. Những tiết mục mang tính truyền thống nhiều hơn là tính hiện đại, cách tân, đổi mới.
Đêm qua, tôi nằm mơ. Giấc mơ không lành. Những tên tội phạm nguy hiểm. Những kim tiêm nhiễm HIV. Và anh. Trong cuộc đấu tranh dữ dội và khốc liệt. Một mũi kim nhiễm HIV đã cướp mất anh. Những ngày không có anh. Trống trải. Nhàm chán. Không say mê. Không sáng tạo. Tôi giật mình. Mồ hôi túa ra. Tại sao lại thế? Dẫu biết trong cuộc đời mọi điều đều có thể xảy ra. Nhưng đó không bao giờ là sự thật. Tôi nhắm mắt lại và thầm cầu mong như thế.
Thơ cho em
Cõi lòng chợt như mùa đông
Cô đơm như mây ngang trời
Vô thường em khóc riêng em
Chị và những niềm riêng
Em về
Chị lại cùng em nếm cà fê Ba Kỳ. Thôi thì đủ các quán. Tùy cảm xúc, tùy thời gian mà tám chuyện với nhau. Vẫn cái kiểu cười như xưa. Chị đã trải qua tuổi như em nên chị hiểu vì sao em lại về đây. Nhớ chiều ngồi công viên osaka với mấy người bạn chị. Bầu trời như cao hơn.
Mấy hôm nay bận chuyển nhà trẻ cho con gái. Mua hồ sơ cho con vào trường công không được chị bức xúc lắm. Cho con gái ở nhà chơi cùng mẹ.
Thứ Năm, 1 tháng 7, 2010
A New Day
Thứ Hai, 28 tháng 6, 2010
Giải thoát
Chủ Nhật, 13 tháng 6, 2010
Bình Minh
Thứ Năm, 10 tháng 6, 2010
Biển chiều
Thứ Tư, 9 tháng 6, 2010
Khoảnh khắc hội thảo
Vẻ đẹp của Bông hồng cho Emily
VẺ ĐẸP CỦA BÔNG HỒNG CHO EMILY
ThS: HUỲNH THỊ THU HẬU
Khoa Xã hội Trường CĐSP Quảng Nam
Đặt vấn đề
William Faulkner (25/9/1887-6/7/1962) là một hiện tượng đặc biệt của văn học Mĩ thế kỉ hai mươi. Bản thân con người đó chưa bao giờ đứng cao hơn tầm vóc thật của mình nhưng trong địa hạt văn chương Mĩ Faulkner là một người khổng lồ. Từ một nhà văn nổi tiếng vùng Mississipi, William Faulkner được cả thế giới tôn vinh như là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỉ XX. Kỳ lạ thay! Một người chưa từng tốt nghiệp cấp 3, chưa bao giờ nhận bằng tốt nghiệp của trường đại học, sống ở một tỉnh nhỏ, tại một bang nghèo nhất nước Mĩ, trong hoàn cảnh gia đình sa sút đã viết một loạt tác phẩm thành công rực rỡ. Là tác giả của 126 truyện ngắn (đáng chú ý là Con gấu, Bông hồng cho Emily, Mặt trời chiều hôm ấy), 19 tiểu thuyết (nổi tiếng nhất là Âm thanh và cuồng nộ, Nắng tháng tám, Absalom Absalom). Thế giới mà ông phản ánh và đào sâu tìm tòi đó là đạo đức và sự thật trái tim con người. Tác phẩm của William Faulkner đề cập đến những giá trị phổ quát, đó là sự sống và cái chết, vấn đề thân phận con người trong thời đại kĩ trị, vấn đề đấu tranh phân biệt chủng tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. Ông đau đáu đi tìm ý nghĩa đích thực của sự hiện tồn. Con người ta không bất tử cũng không tránh được qui luật đào thải khắc nghiệt vì thế cần phải có nghệ thuật và thi ca. William đã đến với nghệ thuật bằng một niềm tin mãnh liệt về con người: “Tôi khước từ chấp nhận sự tàn lụi của con người. Tôi tin tưởng rằng con người sẽ chiến thắng. Nó bất tử không phải vì giữa muôn loài nó có một tiếng nói không mệt mỏi mà là vì nó có một linh hồn, một tinh thần có khả năng trắc ẩn, hy sinh và chịu đựng. Nhiệm vụ của nhà văn là phải viết về những điều này. Đó là đặc quyền của họ để giúp con người chịu đựng bằng cách nâng cao trái tim mình lên, bằng cách nhắc nhở con người về lòng dũng cảm và danh dự, hi vọng và tự hào, trắc ẩn và hy sinh những gì đã từng là vinh quang trong quá khứ của họ” {2, 237}.
Một trong những truyện ngắn đặc sắc của ông là Bông hồng cho Emily. Nhan đề Bông hồng cho Emily gợi cho chúng ta nhớ đến những cánh hồng bất tử trong văn học. Đó là bông hồng khô ép trong quyển thánh kinh của cha Ralph và Meggy ở Tiếng chim hót trong bụi mận gai, những bông hồng bạch trong tiểu thuyết Cây nguời của Patrick White. Liệu Bông hồng cho Emily có mang ý nghĩa thông thường mà bao đời nó được mệnh danh không? Tình yêu, Cái đẹp và Hnhj phúc là những ý nghĩa ẩn tàng thiêng liêng mà hoa hồng gởi đến chúng ta. Mọi người biết đến hoa hồng như là nữ hoàng của các loài hoa. Hương sắc và gai nhọn luôn làm nên vẻ đẹp quyến rũ của hoa hồng. Có điều chúng ta sẽ thất vọng nếu chỉ chăm chú tìm ở truyện ngắn này những bông hồng có thật. Tuyệt nhiên ở đây không có một nhánh hồng nào. Nếu có thì đó chính là Emily, nhân vật chính của câu chuyện.
Nội dung
Không gian yếm khí hay ý thức khước từ của Emily
Không gian nghệ thuật là một phần tinh hoa của ngòi bút Faulkner. Truyện ngắn Bông hồng cho Emily xây dựng một không gian nghệ thuật độc đáo, một không gian huyền thoại. Làmg Jefferson là một làng tưởng tưpựng xuất hiện trong phần lớn sáng tác của ông. Ở ngôi làng này, ngôi nhà nhỏ của cô mily thật đặc biệt. Đó là ngôi nhà cổ kính nhất còn lại. Khi ngôi làng được hiện đại hoá bớịư xuất hiện của những nhà máy, nhà ga...thì ngôi nhà cổ kính của cô Emily trở thành “một cảnh chướng mắt giữa những cảnh chướng mắt khác”{10,33}. Ngôi nhà không có số và luôn luôn đóng cửa. Hơn thế nữa ngôi nhà còn bốc lên mùi hôi. Đó ;à không gian yếm khí, người bình thường cảm thấy ngột thở. Như chúng ta biết tinha cách, lối sống, sự suy nghĩ và hành động của con người chịu tác động rất lớn bởi không gian sống. Raskolnikov sống trong căn phòng tồi tàn, ổ chuột với giấy dán tường màu vàng hoen ố, nung nấu thuyết siêu nhân và ý đồ giết người để thực hiện lý thuyết đó. Không gian sống mà khoáng đạt, trong lành thì con người ở trong đó sẽ đáng yêu hơn, phóng khoáng hơn. Một không gian bất bình thường, thiếu sức sống, đe doạ sự tồn tại. Duy chỉ có Emily, cô chủ ngôi nhà cảm thấy bình thường. Đó không phải là ngôi nhà mà đúng hơn là một nấm mồ sống. Đó là thế giới của riêng cô, thế giới của cái chết: “Cô lâm bệnh trong ngôi nhà đầy bụi bặm và bóng tối...”{10, 44}. Không những thế trên lầu của ngôi nhà còn có một căn phòng đóng kín mà bốn mươi năm qua không ai biết tới có một xác chết-người tình của Emily-Homer Barron. Không gian nghệ thuật đầy yếm khí, khép kín đó lột tả được bi kịch của Emily. Emily là biểu tượng cho sự cô đơn cùng cực của con người. Để chạy trốn nỗi cô đơn bản thể, nói như Enriel Fromm trong cuốn Escape from Freedom có hai con đường, một đường đưa đến sự sống và một đường dẫn đến cái chết. Emily đaz chọn con đường thứ hai . Cô rút vào ốc đảo sự cô đơn của mình, mất hết sợi dây liên hệ ràng buộc với thế giơí bên ngoài. Nhân cách hay bản chất con người nói như Marx là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Emily của Faulkner không có mối quan hệ nào. Với tư cách công dân, Emily không có khả năng để trả thuế đất hàng năm, vì thế cô cứ nhắc đi nhắc lại rằng “Tôi không có thuế má gì phải đóng ở Jefferson cả”{10,35}. Với tư cách là một cá nhân cô không có bạn bè nào. Cô đã từng được yêu nhưng người đàn ông đó đã từng tuyên bố rằng anh ta không pahỉ là người của gia đình. Vì thế cô còn lại có một mình. Có thể cắt nghĩa hành động giết người tình rồi sống với thi thể của anh ta mấy chục năm trời là mộ cách Emily chống lại sự cô đơn. Trong không gian cô đơn đầy yếm khí đó, Emily đã sống và hành động theo cách riêng của mình: kỳ quái, điên loạn, dị thường.
Thời gian nghệ thuật hay quá khứ không bao giờ lụi tàn của Emily
Khi nghiên cứu về thời gian nghệ thuật của Faulkner, Jean Paul Sartre và Jean Brulon cho rằng ông đã sử dụng thời gian trong văn phẩm một cách khác thường. Lẽ thường thì nút truyện phải diễn từ hiện tại để phóng đến tương lai, nhưng với ông thì ngược lại, ông quay về dĩ vãng. Emily sống không biết đến thời gian: “Ngày, tháng, năm trôi qua...Cứ như vậy cô sống trải từ thế hệ này sang thế hệ khác, cao giá, không lẩn trốn, bất khả xâm phạm, trầm tĩnh, ngang bướng {10,44}. Và cô cứ luôn miệng trả lời: “Hãy đi tìm gặp đại tá Satoris (người đã qua đời gần mười năm)”{10,36}. Quá khứ vàng son, quá khứ lộng lẫy của gia đình quí tộc luôn sống trong cô thông qua hình bóng của người cha. Trước cái chết của cha cô vẫn một mực bảo rằng “thân phụ của cô không chết”, “cô đã nói như vậy ba ngày liên tiếp với các mục sư đến viếng, với các y sĩ đến thuyết phục cô để lo liệu cho xác chết”. Quan niệm về thời gian của Faulkner ở đây là quá khứ bao trùm lấy hiện tại, mà hiện tại chỉ có vì những sự kiện trong dĩ vãng. Quá khứ được ví như một tên khổng lồ đứng choáng lấy hiện tại. Ở đó chỉ có dĩ vãng là có thực. Câu nói của Emily cũng như câu nói của Quentin trong Âm thanh và cuồng nộ: I’m not I was (Tôi không hiện hữu mà tôi đã từng sống trước đây). Hình tượng thời gian còn được thể hiện ở các thế hệ được nhắc đến trong truyện: thế hệ đã qua như Satoris và thế hệ nối tiếp với tư tưởng mới mẻ hơn. Dù sống với thế hệ nào, Emily cũng luôn chiến thắng theo cách riêng của cô. Thời Satoris trị vì, ngài miễn hẳn thuế cho cô bằng cách bịa ra câu chuyện trước đây thân phụ cô Emily đã cho tỉnh vay tiền và theo lẽ sòng phẳng thông thường, tỉnh mới tìm cách trả nợ như thế. Đến thế hệ sau: “cứ mỗi tháng chạp đến chúng tôi gửi cho cô một giấy báo thuế và sau đó một tuần nhận được giấy gửi hoàn qua bưu điện: không người nhận”{10,39}. Hình tượng thời gian còn được thể hiện ở chiếc đồng hồ và mái tóc màu xám sắt của Emily. Với việc miêu tả về thời gian như thế, Emily hoàn toàn sống với quá khứ của dòng dõi Grieson. Không những thế cô còn là biểu tượng của miền Nam cổ xưa, biểu tượng của truyền thống. Một miền Nam luôn bất khuất, luôn ngẩng cao đầu:”Cô vẫn ngẩng cao đầu ngay cả khi chúng tôi cho rằng cô thất thế. Có thể nói rằng hơn bao giờ hết cô đòi mọi người phải công nhận cái phẩm cách của cô như một người cuối cùng trong dòng họ Grieson, dường như chính cái vẻ tần thường ấy xác nhận nhân cách bất khả xâm phạm của cô”. Trong cuộc nội chiến, trước sự tấn công của miền Bắc công nghiệp với thiết chế dân chủ, miền Nam nông nghiệp với thiết chế nông nô phải sụp đổ. Đó là sự sụp đổ mang tính qui luật. Nhưng thái độ của Faulkner ở đây là ông vẫn hoài nhớ về một miền Nam với những điều tốt đẹp nhất.
Yếu tố kinh dị và kích thước huyền thoại của nhân vật
Đây là truyện ngắn thể hiện rõ nhất văn phong của Faulkner. Tâm trạng kinh dị (psychological horror) là một phần trong tính cách dị thường, điên loạn và kì quái ở Emily. Emily luôn suy nghĩ, hành động và ứng xử theo cách riêng của mình. Yếu tố kinh dị được thể hiện qua chi tiết cô không chôn xác bố, chi tiết cô đi mua thạch tín và bắt người ta phải bán cho cô dù không muốn, chi tiết xác chết được tìm thấy trong căn phòng của cô và sợi tóc bên dưới gối đặt ngay cạnh chiếc gối của xác chết. Tất cả đều mang dấu ấn cá nhân của Emily. Tính cách của Emily ngoài niềm tự hào kiêu hãnh còn thể hiện ở sự ngoan cường, dũng cảm của cô đối với thái độ của cộng đồng. Cô bị đặt vào hoàn cảnh đáng thương (Chỉ còn lại một mình trên cõi đời, tuổi càng ngày càng cao, không chồng, không con, không có kinh tế) nhưng không để cho người khác thương hại mình. Cô không cho phép ai có quyền thương hại cô. Có thể nói theo Faulkner, Emily chính là biểu tượng về con người không bao giờ tàn lụi, luôn kiêu hãnh. Tính từ pride (có nghĩa là kiêu hãnh) xuất hiện với tầng số cao trong tác phẩm. Yếu tố kinh dị: xác chết, sợi tóc màu xám sắt gây cho chúng ta một ám thị về kiểu con người không tàn lụi. Dù chết đi nhưng Emily luôn sống mãi trong trái tim và trí nhớ của người làng Jefferson. Cả tình yêu mang tính huỷ diệt nơi Emily. Tình yêu của Emily dành cho Homer Barron chỉ có thể so sánh với tình yêu của Quasimodo dành cho Esmeralda. Cả hai giống nhau ở phươg thức yêu: lạ, nhưng khác nhau một bên là tình yêu mang tính hi sinh vị tha đến quên mình (Quasimodo) một bên là tình yêu vị kỉ (giết chết người yêu để được sống suốt đời bên người yêu của Emily). Mặc dù cô luôn chống lại chuẩn mực của công đồng, kiêu hành đặt mình ra ngoài chuẩn mực đó nhưng mọi người ở Jefferson từ già đến trẻ, đàn ông cho đến đàn bà đều yêu mến và kính trọng cô. Tất nhiên có những tiếng thì thầm to nhỏ, những lời tò mò nhưng thật sự mọi người nơi đây đều nghĩ về cô như nghĩ về một điều cần được kính trọng, gìn giữ.
Nghệ thuật trần thuật
Truyện có sự đảo ngược thời gian trần thuật. Mở đầu là hiện tại, chuyện đám tang cô Emily, Faulkner lại quay về với quá khứ xa hơn, chuyện cuộc đời của Emily thời con gái và cuối cùng dừng ở thời hiện tại. Cùng với sự đảo ngược thời gian trần thuật, việc tổ chức điểm nhìn trần thuật, sử dụng nhiều điểm nhìn khiến cho hình tượng nhân vật được soi chiếu dưới nhiều góc độ khác nhau, sắc nét hơn, sinh động hơn và trọn vẹn hơn. Mở đầu là điểm nhìn của người kể chuyện, tiếp đến sử dụng điểm nhìn của bà láng giềng, chàng trai, các nhân vật thuộc thế hệ trẻ ở Jefferson. Có khi điểm nhìn của người kể chuyện trùng với điểm nhìn của nhân vật.
Đối thoại và tính cách kiêu ngạo, bất khả xâm phạm của nhân vật
Như chúng ta biết tính cách của nhân vật được thể hiện thông qua hành động và lời nói. Ở đây tính cách của Emily được thể hiện qua đối thoại. Đối thoại được sử sụng hai lần. Về tần số như vậy không phải nhiều. Nhưng đây lại là những đối thoại toát lên bản chất , tính cách của nhân vật. Lần thứ nhất có nội dung về khoản thuế phải đóng, lần thứ hai là khi cô đi mua thạch tín. Giọng của cô dù ở đối thoại một hay hai đều là giọng của người tự đặt mình, tự cho mình ở trên người khác: “Cô cất giọng khô khan lạnh lẽo: Tôi không có thuế má gì phải đóng ở Jefferson ... Có lẽ một trong các ông có thể tới văn khố toà thị chính mà tự tìm hỏi..”{10,36}, “Hãy đi gặp đại tá Satoris...Chú Tobe! Dẫn đường cho các ông ấy ra”{10,36}, “Tôi muốn mua độc dược”{10,40}.
Dấu hiệu giọng tự cho mình ở trên người khác được tìm thấy ở cấu trúc các lời thoại mà Emily sử dụng. Cô dùng câu khẳng định với những động từ: muốn. Câu cầu khiến ra lệnh. Như vậy đối thoại ở đây cho chúng ta thấy cô không quan tâm đến người cùng tham gia cuộc thoại, cô chỉ nói như mình mong muốn mà không cần tìm hiểu xem đối tượng cùng tham gia có đồng ý hay không. Cô buộc mọi người phải khuất phục mình bằng đối thoại kiểu quý tộc ấy.
Kết luận
Đến đây chúng ta có thể kết luận giá trị của truyện ngắn Bông hồng cho Emily không nằm ở kĩ thuật viết phức tạp mà nằm ở giá trị nhân văn mà ông muốn gửi đến chúng ta. Emily vừa là biểu tượng của miền Nam cổ xưa, vừa là biểu tượng của truyền thống. Một miền Nam luôn bất khuất và ngẩng cao đầu. Hơn nữa, Qua hình tượng này Faulkner muốn gửi đến cho chúng ta bức thông điệp con người đừng bao giờ tự cô lập mình, mỗi người là một bộ phận, một giọt nước trong biển cả. Vì vậy cần phải mở lòng tìm đến với nhau trong yêu thương thông cảm và thấu hiểu. Đọc được Faulkner với lí trí thôi chưa đủ, cần phải đọc bằng cả tâm hồn, cả trái tim. Có như thế chúng ta mới cảm nhận được hết cái hay cái đẹp của Bông hồng cho Emily.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.M.H Abrams, A Glossary of Literature Terms, Harcout Brace Collêg Publisher,1985.
2. Lê Huy Hoà- Nguyễn Văn Bình, Những bậc thầy văn chương thế giới tư tưởng và quan niệm, NXB Văn học, 1985.
3. Malcolm Cowley, The Faulkner- Cowley File Letter’s and memories, New York, The Viking Press, 1996.
4. William Faulkner, Âm thanh và cuồng nộ (Phan Đan- Phan Linh Lan dịch), NXB Hội nhà văn,1992.
5. William Faulkner Campfire forum.
6. William Faulkner on the web.
7. Robert Warren, Faulkner- A Collection of critical Essays, Prentice Hall, Inc, Engle wood cliffs, New Jersey, 1996.
8. Doãn Quốc Sĩ- Nguyễn Văn Nhã, William Faulkner cuộc đời và tác phẩm, NXB Hiện đại thư xã, 1973.
9. Phạm Công Thiện,Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, NXB La Bối, 1965.
10. Truyện ngắn châu Mĩ tập 2, NXB Văn học- Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2000.